chí phèo nam cao pdf
Đề bài: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao. SGK Ngữ văn lớp 11. Mở bài Chí Phèo “Chí phèo” là kiệt tác của Nam Cao và cũng là kiệt tác của trào lưu văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930-1945.
Chí Phèo là một truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn Nam Cao viết vào tháng 2 năm 1941. Chí Phèo là một tác phẩm xuất sắc, thể hiện nghệ thuật viết truyện độc đáo của Nam Cao, đồng thời là một tấn bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội. Hiện
Không hiểu sao khi đọc “Chí Phèo” của Nam Cao tôi luôn luôn hình dung ra một con đường in bóng hình những bước chân loạng choạng, ngật ngưỡng đầy phẫn uất của một Chí Phèo say – tỉnh.
nọ.Năm hai mươi tuổi ,hắn làm canh điền cho ông Lí Kiến,bây giờ là. + Thái độ & suy nghĩ: cụ Bá Kiến ăn tiên chỉ làng.”. “thấy nhục chứ yêu đương gì” → Có lòng tự trọng cao. “ người ta không là đá, nhưng cũng không hoàn toàn là xác thịt” → có ý thức. a
Soạn bài Chí Phèo (Nam Cao) - Phần tác phẩm HỌC TẬP – LỚP 11 - SOẠN VĂN LỚP 11 Câu 1. Cách vào truyện của Nam Cao độc đáo như thế nào? Hãy nêu ý nghĩa tiếng chửi của nhân vật Chí Phèo trong đoạn văn mở đầu thiên truyện. Trả lời:
Site De Rencontre Lesbienne Non Payant. Uploaded byQuang Tuan 0% found this document useful 0 votes1 views11 pagesOriginal Titlechí phèo - nam caoCopyright© © All Rights ReservedShare this documentDid you find this document useful?Is this content inappropriate?Report this Document0% found this document useful 0 votes1 views11 pagesChí Phèo - Nam CaoOriginal Titlechí phèo - nam caoUploaded byQuang Tuan Full descriptionJump to Page You are on page 1of 11Search inside document You're Reading a Free Preview Pages 6 to 10 are not shown in this preview. Buy the Full Version Reward Your CuriosityEverything you want to Anywhere. Any Commitment. Cancel anytime.
Chí Phèo là một truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn Nam Cao viết vào tháng 2 năm 1941. Chí Phèo là một tác phẩm xuất sắc, thể hiện nghệ thuật viết truyện độc đáo của Nam Cao, đồng thời là một tấn bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội. Truyện đã được đưa vào sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1. Chí Phèo cũng là tên nhân vật chính của truyện. Truyện ngắn Chí Phèo, nguyên có tên là Cái lò gạch cũ; khi in thành sách lần đầu năm 1941, Nhà Xuất bản Đời mới – Hà Nội tự ý đổi tên là Đôi lứa xứng đôi. Đến khi in lại trong tập Luống cày do Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội, 1946, Nam Cao đặt lại tên là Chí Phèo. Nam Cao bắt đầu sáng tác từ năm 1936, nhưng đến tác phẩm Chí Phèo, nhà văn mới khẳng định được tài năng của mình. Chí Phèo là một kiệt tác trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, một truyện ngắn có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, mới mẻ, chứng tỏ trình độ nghệ thuật bậc thầy của một nhà văn lớn. *** Nam Cao 1915/1917 – 28 tháng 11 năm 1951 là một nhà văn và cũng là một chiến sỹ, liệt sỹ người Việt Nam. Ông là nhà văn hiện thực lớn trước Cách mạng, một nhà báo kháng chiến sau Cách mạng, một trong những nhà văn tiêu biểu nhất thế kỷ 20. Nam Cao có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20. Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri có nguồn ghi là Trần Hữu Trí, sinh năm 1915, nhưng theo giấy khai sinh ghi thì là ngày 29 tháng 10 năm 1917. Quê ông tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, Hà Nam. Ông đã ghép hai chữ của tên tổng và huyện làm bút danh Nam Cao. Ông xuất thân từ một gia đình Công giáo bậc trung. Cha ông là ông Trần Hữu Huệ, làm nghề thợ mộc và thầy lang trong làng. Mẹ ông là bà Trần Thị Minh, vừa là nội trợ, làm vườn, làm ruộng và dệt vải. Thuở nhỏ, ông học sơ học ở trường làng. Đến cấp tiểu học và bậc trung học, gia đình gửi ông xuống Nam Định học ở trường Cửa Bắc rồi trường Thành Chung nay là trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong- Nam Định. Nhưng vì thể chất yếu, chưa kịp thi Thành Chung, ông đã phải về nhà chữa bệnh, rồi cưới vợ năm 18 tuổi. *** Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi trời, có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao Đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ồ thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế thì có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này! A ha! Phải đấy hắn cứ thế mà chửi, hắn chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo? Mà có trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết. ... Mời các bạn đón đọc Chí Phèo của tác giả Nam Cao.
ArticlePDF Available Abstract“Cái chết” là một chi tiết xuất hiện với tần số cao và mang nhiều giá trị nghệ thuật cũng như ẩn chứa nhiều nội dung tư tưởng trong tác phẩm của Nam Cao. Vì vậy, trong bài nghiên cứu này, chúng tôi khảo sát và phân tích ý nghĩa chi tiết “cái chết” trong tác phẩm ông. Qua đó mong muốn góp tiếng nói khẳng định giá trị và sức sống của ngòi bút nghệ thuật và tư tưởng của tác gia này trong đời sống văn học Việt Nam. Discover the world's research25+ million members160+ million publication billion citationsJoin for freeContent may be subject to copyright. 438 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT Tập 7, Số 4, 2017 438–446 CHI TIẾT “CÁI CHẾT” TRONG TÁC PHẨM CỦA NAM CAO Kiều Thanh UyênaaKhoa Ngữ văn và Văn hóa học, Trường Đại học Đà Lạt, Lâm Đồng, Việt Nam Lịch sử bài báo Nhận ngày 23 tháng 05 năm 2016 Chỉnh sửa ngày 27 tháng 03 năm 2017 Chấp nhận đăng ngày 11 tháng 08 năm 2017 Tóm tắt “Cái chết” là một chi tiết xuất hiện với tần số cao và mang nhiều giá trị nghệ thuật cũng như ẩn chứa nhiều nội dung tư tưởng trong tác phẩm của Nam Cao. Vì vậy, trong bài nghiên cứu này, chúng tôi khảo sát và phân tích ý nghĩa chi tiết “cái chết” trong tác phẩm ông. Qua đó mong muốn góp tiếng nói khẳng định giá trị và sức sống của ngòi bút nghệ thuật và tư tưởng của tác gia này trong đời sống văn học Việt Nam. Từ khóa Cái chết; Tác phẩm Nam Cao; Văn học Việt Nam. 1. TÁC PHẨM CỦA NAM CAO TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HỌC VIỆT NAM Văn xuôi hiện thực Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 đã đạt được những thành tựu trong cuộc hiện đại hóa văn học nửa đầu thế kỷ XX. Những tác gia văn xuôi hiện thực giai đoạn này vẫn được nhắc đến như những cây đại thụ với tâm huyết và tài năng như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Thạch Lam, Bùi Hiển, Kim Lân,… Tuy xuất hiện và đánh dấu tên tuổi trên văn đàn 1930 - 1945 khá muộn màng nhưng Nam Cao đã cho thấy ngòi bút tài năng và giàu cảm xúc qua những tác phẩm đạt đến giá trị cổ điển. Vì vậy, Nam Cao được đánh giá là nhà văn hiện thực nhất trong các nhà văn hiện thực của văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945. Nam Cao quan tâm mọi tầng lớp, mọi loại người trong xã hội kể cả cái đẹp lẫn cái xấu, cái hiền và cái ác. Từ những trí thức đến những bần cố nông, những anh canh điền, những kẻ lưu manh, những người đàn bà dở hơi,… đều được Nam Cao chăm chút, tỉ mỉ khắc họa từ diện mạo đến thế giới tinh thần. Tuy không khái quát bối cảnh xã hội rộng lớn như Vũ Trọng Phụng nhưng Nam Cao lại có chiều sâu nhân bản với chi tiết vụn Tác giả liên hệ Email uyenkt TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 439 vặt, nhỏ nhặt. Có lẽ vì vậy mà những vấn đề mà Nam Cao đặt ra không hạn chế ý nghĩa trong một giai đoạn lịch sử - xã hội mà luôn có giá trị trong mọi thời đại. Tác phẩm của Nam Cao luôn được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học ở nhiều khía cạnh, nhiều bình diện. Vũ 2011 nghiên cứu về Phong cách truyện ngắn Nam Cao ở tính hiện thực, thi pháp truyện và kết cấu truyện, qua đó khẳng định sức sống của văn Nam Cao, “Văn Nam Cao là phức hợp, là tổng hợp những cực đối nghịch bi và hài, trữ tình và triết lý, cụ thể và khái quát” Vũ, 2011, tr. 165. Nhà nghiên cứu Trần 1998 trong bài nghiên cứu Nam Cao - Nhà văn hiện thực xuất sắc, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn trên Tạp chí Văn học số 6 năm 1998, cho rằng, “Cái gốc nền tảng vững chắc của chủ nghĩa hiện thực của Nam Cao là chủ nghĩa nhân đạo” Trần, 1998, tr. 65. Tác phẩm của Nam Cao đã vượt qua thử thách của thời gian với ý nghĩa hiện thực, tư tưởng nhân đạo và bút pháp nghệ thuật điêu luyện. Từ những tình tiết vụn vặt, đời thường, Nam Cao đã chạm đến những vấn đề mang tính nhân bản. Nguyễn 2011 cho rằng “cái đói và miếng ăn” là chi tiết nghệ thuật đặc sắc trong tác phẩm Nam Cao qua bài nghiên cứu Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn Nam Cao, “Nhưng nếu như tác phẩm của Ngô Tất Tố là tiếng kêu cứu đói, thì tác phẩm của Nam Cao lại là tiếng kêu cứu lấy nhân cách, nhân phẩm, nhân tính của con người đang bị cái đói và miếng ăn làm cho tiêu mòn đi, thui chột đi, hủy diệt đi” Nguyễn, 2011, tr. 293. Ngoài chi tiết nghệ thuật “cái đói và miếng ăn”, tác phẩm của Nam Cao còn để lại ấn tượng trong lòng người đọc với chi tiết “cái chết”. Nếu xét cái chết đơn thuần về mặt thể xác, trong số 60 tác phẩm in trong cuốn Nam 2004 được chọn để khảo sát thì có đến hơn 17 cái chết trong nội dung tác phẩm. Vì vậy, trong bài nghiên cứu này, chúng tôi mong muốn góp tiếng nói khẳng định giá trị chi tiết “cái chết” trong tác phẩm của Nam Cao ở cả khía cạnh nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. 2. “CÁI CHẾT” - CHI TIẾT NGHỆ THUẬT ĐẶC SẮC TRONG TÁC PHẨM CỦA NAM CAO Phân loại chi tiết “cái chết” trong tác phẩm của Nam Cao Cái chết xuất hiện trong tác phẩm của Nam Cao dưới nhiều phương thức Chết vì đói, chết vì no, chết vì bệnh tật, chết vì ảo tưởng, chết vì ham mê nghề nghiệp, chết vì 440 Kiều Thanh Uyên ghen tuông, chết vì ý thức quyền làm người, chết vì giữ nhân cách, chết vì tủi nhục, chết vì hung bạo… Có những cái chết đơn thuần về mặt thể xác xuất hiện nhiều trong các tác phẩm của Nam Cao Mai Cảnh cuối cùng, anh Đĩ chuột Nghèo, đôi tài tử Khang và Nhưng Hai cái xác, Chí Phèo, Chú Khì, Lão Hạc, mẹ Dần Một đám cưới, một gia đình ở làng Mai Quái dị, mẹ Ninh Từ ngày mẹ chết, Lang Rận, anh Phúc Điếu văn, Trương Rự Nửa đêm, anh chàng thất nghiệp Xem bói, thằng Tề Mò sâm banh,… Bên cạnh đó, Nam Cao còn khắc họa diện mạo của thời đại qua những “cái chết tinh thần” như Thứ, San, Oanh Sống mòn, Hài Quên điều độ, Hộ Đời thừa, những trí thức trẻ Nhỏ nhen, Lão chột, bà Ngã, bà Hai Mợn, bác Cai Minh, cô thầy Người hàng xóm, cu Lộ Tư cách mõ, Chí Phèo, Bá Kiến Chí Phèo,… Hơn thế, trong tác phẩm của Nam Cao còn xuất hiện nhiều cái chết của con vật có giá trị nghệ thuật. Cái chết của con Mực là cái chết của tâm hồn người trí thức, “Sau cùng thì chàng bực mình Chàng nhận ra rằng một con chó đã làm mất sự bình tĩnh của tâm hồn chàng. Và đột nhiên chàng muốn giết con Mực lắm. Chàng muốn có đủ can đảm để giết người. Phải dám giết mà không run tay khi cần phải giết. Còn làm được trò gì nữa nếu chỉ giết một con chó mà tim cũng đập?” Nam, 2004, tr. 59. Cái chết của con chó tên “cậu Vàng” trong Lão Hạc lại là một cái chết “hy vọng tồn tại” của một nhân cách trong hoàn cảnh xã hội đương thời. Cái chết của con chó trong Trẻ con không biết ăn thịt chó là cái chết của tư cách làm cha. Qua cái chết của những con vật, Nam Cao gián tiếp đặt ra những vấn đề nhân cách tha hóa, tâm hồn mòn gỉ hay sự bất lực của con người trước sự chi phối của hoàn cảnh xã hội. Không chỉ đặc sắc ở ngòi bút mô tả cái chết thể xác mà Nam Cao còn độc đáo và xuất sắc khi khắc họa “cái chết tinh thần”. Trong luận đề văn chương Nam Cao - Một đời người, một đời văn, Nguyễn 1993 đã khẳng định giá trị tác phẩm Nam Cao ở chi tiết “cái chết tinh thần”, “Tư tưởng bao trùm và sâu xa nhất của ông là tư tưởng nhân đạo là tình yêu thương và nỗi đau đối với con người, là sự tinh nhạy đặc biệt trước thực trạng con người sống không ra người, bị mất nhân phẩm, nhân cách, nhân tính” Nguyễn, 1993, tr. 30. Những cu Lộ, hương Bịch,… bán rẻ lòng tự trọng vì miếng ăn, những Chí Phèo, Trương Rự,… tha hóa nhân cách, “Chao ôi! Cái chết còn hung bạo hơn những thằng hung bạo, còn thắng được những thằng hung bạo” Nam, 2004, tr. 366; Những Thứ, San, TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 441 Oanh... tha hóa tâm hồn, “Trước sau thì cũng chết. Ai cũng chết. Mà ai cũng chỉ chết một lần mà thôi. Sống sẻn so làm gì?” Nam, 2004, tr. 468; Những con người ở xóm Bài Thơ Người hàng xóm luẩn quẩn, lọc lừa, giẫm đạp, cạnh khóe, xoi mói, “Những ngọn đèn ngái ngủ, chỉ mỗi đêm nửa tiếng đồng hồ vào lúc bắt đầu đêm. Chúng tù mù và làm người ta nghĩ đến những kiếp sống com rom, những cuộc đời lúc gần tàn, những người già nằm đợi chết...” Nam, 2004, tr. 669. Với Nam Cao, hơn cả sự đau đớn của cái chết thể xác là bi kịch của “cái chết tinh thần” - “chết ngay trong lúc sống”, đó là những cái chết của ước mơ, cái chết của đam mê, cái chết của nhân cách, cái chết của lối sống, cái chết của tâm hồn. Đó còn là bi kịch quyền sống, quyền làm người đúng nghĩa mà Nam Cao đặt ra. Nghệ thuật xây dựng chi tiết “cái chết”trongtác phẩm của Nam Cao Viết về cái chết của bất cứ nhân vật nào, Nam Cao vẫn giữ một giọng văn thản nhiên đến mức cay nghiệt, tàn nhẫn. Từ cái chết của Chí Phèo - con quỷ dữ đang muốn trở lại làm người Hắn rút dao ra, xông vào, Bá Kiến ngồi nhỏm dậy, Chí Phèo đã văng dao tới rồi. Bá Kiến chỉ kịp kêu một tiếng. Chí Phèo vừa chém túi bụi vừa kêu làng thật to. Hắn kêu làng, không bao giờ người ta vội đến. Bởi thế khi người ta đến thì hắn cũng đang giẫy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi. Mắt hắn trợn ngược. Mồm hắn ngáp ngáp, muốn nói nhưng không ra tiếng. Ở cổ hắn, thỉnh thoảng máu vẫn còn ứ ra. Nam, 2004, tr. 98. Đến cái chết của ông lão cô đơn, đáng thương muốn giữ lại chút nhân cách, lòng tự trọng cuối cùng Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt lòng sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, giật nẩy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết. Cái chết thật là dữ dội. Nam, 2004, tr. 162. 442 Kiều Thanh Uyên Hay cái chết cả thể xác lẫn tinh thần của bà cụ đáng thương đánh đổi lòng tự trọng vì cái đói. Bà chịu đựng ánh mắt khinh rẻ, lời xỉa xói của bà Phó thụ để được một bữa no, “Đằng nào cũng mang tiếng rồi thì dại gì mà chịu đói?” Nam, 2004, tr. 223. Cho đến cuối cùng, Nam Cao vẫn giữ giọng điệu trần thuật lạnh lùng khi miêu tả cái chết của các nhân vật. Cái chết của Chí Phèo cũng chỉ là vở kịch ân oán, cái chết của bà lão trong Một bữa no là sự chế giễu, cái chết của Mai Cảnh cuối cùng là kết thúc của nghiệp “xướng ca vô loài”, cái chết của một gia đình làng Mai Quái dị chỉ nhận được sự xa lánh, lãng tránh, cái chết của Lang Rận kết thúc một trò cười,… Giọng điệu, sắc thái của ngôn ngữ trần thuật dửng dưng, cay nghiệt của người kể cũng là thái độ thờ ơ, vô cảm với nỗi đau đồng loại của một thời đại Cả làng Vũ Đại nhao lên. Họ bàn tán nhiều về vụ án không ngờ ấy. Có nhiều kẻ mừng thầm, không thiếu kẻ mừng ra mặt! Có người nói xa xôi “Trời có mắt đấy, anh em ạ!” Người khác thì nói toạc “Thằng nào chứ hai thằng ấy chết thì không ai tiếc! Rõ thật bọn chúng nó giết nhau, nào có cần phải đến tay người khác đâu”. Mừng nhất là bọn kỳ hào ở trong làng. Họ tuôn đến để hỏi thăm, nhưng chính là để nhìn lý Cường bằng những con mắt thỏa mãn và khiêu khích. Đội Tảo, không cần kín đáo, nói toang toang ngay ngoài chợ, trước mặt bao người “Thằng bố chết, thằng con lớp này không khỏi người ta cho ăn bùn”. Ai chả hiểu “người ta” đó là chính ông. Bọn đàn em thì bàn nhỏ “Thằng mọt già ấy chết, anh em mình nên ăn mừng”. Những người biết điều thì hay ngờ vực, họ chép miệng nói “ Tre già măng mọc, thằng ấy chết, còn thằng khác, chúng mình cũng chẳng lợi tí gì đâu… Nam, 2004, tr. 98. Nhưng đằng sau cách trần thuật thản nhiên, lạnh lùng đến mức cay nghiệt là cả một tấm lòng thương yêu tha thiết từng thân phận, từng tính cách, tâm hồn con người. Nam Cao không dụng công vào việc chọn chi tiết nhưng lại có cách sử dụng rất đắt. Những cái chết trong tác phẩm của Nam Cao, kể cả những cái chết thể xác của Chí Phèo, Lão Hạc, anh Đĩ chuột Nghèo, bà cái đĩ Một bữa no,… không đơn thuần là chi tiết khép lại thiên truyện mà mở một trường suy nghĩ với nhiều giá trị về cả mặt nghệ thuật và nội dung tư tưởng. Giết chết Bá Kiến và tự kết liễu cuộc đời của Chí Phèo là sự TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 443 phản kháng, sự ý thức quyền làm người, tiếng nói đòi lại quyền làm con người đúng nghĩa. Tiếng nói ấy còn tăng thêm giá trị với những cái chết tinh thần - “chết ngay trong lúc sống” của những người trí thức mòn mỏi trong cuộc đời luẩn quẩn, tù túng của Thứ, San, Oanh, Hài, Hộ,… 3. CHI TIẾT “CÁI CHẾT” VÀ SỨC SỐNG CỦA TÁC PHẨM NAM CAO Qua chi tiết “cái chết”, Nam Cao tái hiện cả một thời đại lịch sử dân tộc trên trang văn. Tuy không có những mốc thời gian, những con số thống kê chính xác nhưng tác phẩm của Nam Cao tái hiện chân thực nhất nỗi thống khổ của dân tộc trong những năm đói kém mà lịch sử ghi lại. Những cái chết của anh Đĩ chuột, bà cái đĩ, Lão Hạc, mẹ Dần, mẹ Ninh,… hay những nhân cách bị tha hóa, tâm hồn mòn gỉ của anh cu Lộ, Thứ, San, Oanh, Hài… là minh chứng chân thực nhất cho những kiếp người, thân phận con người trong thực trạng xã hội đương thời, “Chúng tôi, những kẻ đã đau khổ, đã uất ức, đã ước ao, đã khát thèm, đã thất vọng và vẫn hy vọng mãi và phải hy vọng mãi” Nam, 2004, tr. 347. Nam Cao không chỉ hiện thực ở tái hiện cuộc sống mà còn hiện thực ở khắc họa tâm lý, tư tưởng con người. Với ngòi bút sắc sảo, Nam Cao đã chỉ ra nguyên nhân thứ hai bên cạnh hoàn cảnh xã hội đẩy con người tới cái chết cả về thể xác và tinh thần, đó chính là “lòng người”. Nam Cao không phán xét hay đánh giá tư tưởng, quan điểm của con người thời đại mà cắt nghĩa, lý giải nguyên nhân hình thành. Thứ, San, Oanh là nhưng trí thức làm công việc gõ đầu trẻ trong một ngôi trường tư do Đích thành lập ở vùng ngoại ô. Cốt truyện chỉ xoay quanh sinh hoạt thường ngày của những trí thức nhiều hoài bão như bữa cơm, chuyện chuyển nhà trọ, chuyện tính toán thuê người nấu cơm, chuyện yêu đương của thằng ở, chuyện tán tỉnh những cô gái, chuyện ghen tuông,… Đáng thương hơn là Thứ, San và các nhân vật trí thức đều ý thức được cuộc đời mòn gỉ nhưng không sao thoát ra được Đời họ là một đời tù đày. Nhưng cũng như một con trâu, họ vẫn cắm cúi kéo cày, ăn cỏ, chịu roi. Ở bên kia những cánh đồng bùn lầy, là rừng xanh, cuộc sống tự do, cỏ ngập sừng. Con trâu có lẽ cũng biết vậy, nhưng chẳng bao giờ nó dám đi, chẳng bao giờ nó dám dứt đứt sợi dây thừng. Cái gì giữ con trâu lại đồng bằng và 444 Kiều Thanh Uyên ngăn người ta đến một cuộc đời rộng rãi hơn, đẹp đẽ hơn? Ấy là thói quen, lòng sợ hãi, sự đổi thay, sợ hãi những cái gì chưa tới. Ấy thế mà trên đời này lại chẳng có cái gì tới hai lần. Sống tức là thay đổi. Nam, 2004, tr. 295. Cùng thời với Nam Cao, có rất nhiều nhà văn sáng tác dưới ánh sáng của chủ nghĩa hiện thực. Trong các truyện ngắn mang tính trào phúng, châm biếm có tính chất ngụ ngôn, Nguyễn Công Hoan cũng rất gay gắt trong giọng điệu khi vạch trần thói hư, tật xấu của con người. Nhưng Nguyễn Công Hoan chưa bao giờ trực diện khắc họa “cái chết”, có chăng nhà văn này chỉ miêu tả những trận đòn dở sống, dở chết. Hay Thạch Lam luôn “tìm vào nội tâm, tìm vào cảm giác” của con người nhưng chưa bao giờ đề cập đến “cái chết” ở khía cạnh tâm hồn. Ông chú trọng tìm đến vẻ đẹp nội tâm bản chất, tự nhiên còn sót lại trong tâm hồn con người trước tác động của hoàn cảnh xã hội. Tuy nhiên, ở một mức độ nhất định, Nguyễn Công Hoan và Nam Cao đều khắc họa “cái chết tâm hồn” của cả một thời đại Vô cảm, thờ ơ với nỗi đau của đồng loại. Đó là những bà bán hàng chợ, những ông cảnh vệ, những người đi đường, những tên nhà giàu,… cả một xã hội trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan hiện lên với những cái nhìn hoài nghi, xoi mói, vô cảm trong Thằng ăn cắp, Cái vốn sinh nhai, Bữa no… đòn, Răng con chó nhà tư sản, Thế cho nó chừa,… Đó là những Thứ, San, Oanh, những Bá Kiến, những bà Phó Thụ, những người hàng xóm,… trong tác phẩm của Nam Cao hắt hủi, xa lánh những số phận, bi kịch của đồng loại. Cùng với Thạch Lam, Nam Cao nhìn ra bản chất, bản tính tự nhiên tốt đẹp của con người tạm thời biến đổi hay bị che lấp bởi hoàn cảnh xã hội Chao ôi! Đối với những con người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương, không bao giờ ta thương… Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Nam, 2004, tr. 161. 4. THAY LỜI KẾT Mặc dù tác phẩm của Nam Cao chỉ xoay quanh từng ấy nhân vật, từng ấy cảnh đời ở làng quê và thành thị nhưng khái quát nên cả một bức tranh xã hội đương thời ở nhiều bình diện. Nam Cao không những khắc họa “vị trí và số phận” con người qua chi tiết nghệ thuật “cái đói và miếng ăn” mà còn qua “cái chết”. “Cái chết” trong tác phẩm TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN] 445 của Nam Cao không chỉ đơn thuần về mặt thể xác mà còn là cái chết tinh thần. Đáng chú ý nhất, đó là “cái chết tâm hồn”, sự ích kỷ, đố kỵ, thờ ơ, vô cảm với nỗi đau của đồng loại, “Trơ trơ trước mắt cái chết của một người thân, y đã khóc cái chết của chính tâm hồn mình…” Nam, 2004, tr. 249. Dù “cái chết” ở phương diện nào, bằng phương thức nào cũng mang những giá trị nghệ thuật và chứa đựng nội dung tư tưởng sâu sắc. Chi tiết “cái chết” trong tác phẩm của Nam Cao không chỉ vẽ nên diện mạo của cả một thời đại mà còn là bi kịch về quyền sống, quyền làm người trong bối cảnh xã hội đương thời. Có thể khẳng định rằng, “cái chết” trong sáng tác của Nam Cao đã trở thành một chi tiết nghệ thuật mang nhiều giá trị, ẩn chứa nhiều ý nghĩa nghệ thuật. Những cái chết nhân cách, cái chết tâm hồn, cái chết lòng tự trọng, cái chết của lối sống,… tạo nên nét độc đáo trong nội dung tư tưởng cũng như bút pháp nghệ thuật trong sáng tác của Nam Cao so với các tác gia đương thời. TÀI LIỆU THAM KHẢO Nam, C. 2004. Toàn tập 1,2. Sơn La, Việt Nam NXB. Công an Nhân dân. Nguyễn, Đ. M. 2011. Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn Nam Cao. Trong Vũ, T. N. và ctg. Eds., Nam Cao Tác phẩm và lời bình tr. 289-296. TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam NXB. Trí Việt. Nguyễn, V. H. 1993. Nam Cao - Một đời người, một đời văn. Hà Nội, Việt Nam NXB. Giáo dục. Trần, Đ. S. 1998. Nam Cao - Nhà văn hiện thực xuất sắc, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Tạp chí Văn học, 6, 63-68. Vũ, T. N. 2011. Phong cách truyện ngắn Nam Cao. Trong Vũ, T. N. và ctg. Eds., Nam Cao Tác phẩm và lời bình tr. 161-167. TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam NXB. Trí Việt. 446 Kiều Thanh Uyên “THE DEATH” DETAIL IN NAM CAO’S WORKS Kieu Thanh Uyena* aThe Faculty of Literature and Cultural Studies, Dalat University, Lamdong, Vietnam *Corresponding author Email uyenkt Article history Received May 23rd, 2016 Received in revised form March 27th, 2017 Accepted August 11th, 2017 Abstract "The death" is a detail which appeared frequently, carrying great art value and also implying a lot of ideological content in Nam Cao’s works. Therefore, in this research, we examine and analyze the meaningful detail of "the death" in his works. Thereby, we want to contribute our voice to affirm the value and strong vitality of this author in the life of Vietnamese literature. Keywords Nam Cao’s works; “The death” detail; Vietnamese literature. ResearchGate has not been able to resolve any citations for this has not been able to resolve any references for this publication.
Nằm trong series DANH TÁC VIỆT NAM – một dự án lớn của công ty PHAN THỊ - CHÍ PHÈO, từ tác phẩm văn học kinh điển được khoác chiếc áo “chuyển thể truyện tranh” sẽ mang lại luồng gió mới cho Truyện tranh Việt Nam. Tham vọng lớn nhất của PHAN THỊ không nằm ngoài việc góp phần đổi mới tư duy văn học cho thế hệ trẻ đang ngồi trên ghế nhà trường. Chiều hôm ấy thị Nở cũng ra sông kín nước như mọi chiều. Nhưng chiều hôm ấy, trăng lại sáng hơn mọi chiều, trăng tỏa trên sông và sông gợn biết bao nhiêu gợn vàng. Những vàng ấy rung rinh mới trông thì đẹp, nhưng trông lâu mỏi mắt. Gió lại mát như quạt hầu. Thị Nở thấy muốn ngáp mà mí mắt thì nặng dần, toan díp lại. Thị vốn có một tật không sao chữa được có lúc đột nhiên muốn ngủ, bất cứ ở đâu hay đang làm gì. Bà cô thị bảo thị là một người vô tâm. Ngáp một cái, thị nghĩ bụng khoan hãy kín nước, hãy để lọ xuống ngồi nghỉ đây. Bởi vì thị đã luật quật đập đất từ trưa tới giờ. Mà mấy khi được một nơi mát thế, mát rợn da rợn thịt, sung sướng quá! Mát y như quạt hầu. Thị cởi áo ra ngồi tựa vào gốc chuối, dáng ngồi không kín đáo, nhưng không bao giờ thị biết thế nào là lả lơi. Con người vô tâm, không hay nghĩ xa xôi mà. Vả lại ở đây chẳng có ai. Chí Phèo đã về đâu, mà hắn có về thì cũng say khướt đã ngủ từ nửa đường và tới nhà tức khắc chúi đầu vào ngủ nốt. Hắn ra làm gì đây, cho có ra nữa thì đã sao? Thị không thể sợ hắn có thể phạm đến thị bởi lẽ rất giản dị là thị chưa thấy ai phạm đến thị bao giờ. Thật ra thì thị cũng chẳng nghĩ ngợi nhiều đến thế. Trong óc thị đã có một bóng đen lan rồi. Thị không ngồi thì không chịu được. Ngồi một lúc thị thấy rằng nếu cứ ngồi mãi thì ngủ mất. Nhưng thị đã ngủ đến hai phần rồi. Và thị nghĩ thì ngủ, ngủ thì đã làm sao! Về nhà thì cũng chỉ ngủ, ngủ ngay đây cũng vậy. Bà cô đi theo hàng ít ra cũng dăm hôm mới về. Thị cứ ngồi đây cho mát. Và thị ngủ. Thị ngủ ngon lành và say sưa. Chí Phèo vẫn say say nhìn và run run. Bỗng nhiên hắn rón rén lại gần thị Nở lần đầu tiên hắn rón rén, từ khi về làng. Thoạt tiên, hắn xách cái lọ để ra xa, rồi hắn lẳng lặng ngồi xuống bên sườn thị. Và thị Nở giật mình. Thị Nở mới kịp giật mình thì thằng đàn ông đã bám víu lấy thị.... Thị vùng vẫy đẩy ra, thị mở mắt, thị tỉnh hẳn, thị nhận ra Chí Phèo. Thị vừa thở, vừa vật nhau với hắn vừa hổn hển “Ô hay... Buông ra... Tôi kêu... Tôi kêu làng... Buông ra. Tôi kêu làng lên bây giờ!” Thằng đàn ông phì cười. Sao thị lại kêu làng nhỉ? Hắn vẫn tưởng chỉ có hắn mới kêu làng thôi; người ta lại kêu tranh của hắn, bỗng nhiên hắn la lên kêu làng. Hắn kêu như một kẻ bị đâm, vừa kêu vừa dằn người đàn bà xuống. Thị Nở trố mắt ngây ra nhìn. Thị Nở kinh ngạc sao hắn lại kêu làng nhỉ? Mà hắn vẫn chưa chịu thôi kêu làng. Cũng may người quanh đây không có ai lạ gì tiếng hắn, mà khi hắn kêu làng thì không ai cần động dạng họ lạu bạu chửi rồi lại ngủ; hắn kêu làng cũng như người khác buồn, hát ngao. Đáp lại hắn chỉ có lũ chó cắn xao lên trong xóm. Thị Nở bỗng nhiên bật cười. Thị Nở vừa rủa vừa đập tay lên lưng hắn. Nhưng đó là cái đập yêu, bởi vì đập xong, cái tay ấy lại giúi lưng hắn xuống. Và chúng cười với nhau... Bây giờ thì chúng ngủ bên nhau... Đứa bé bú no thì ngủ. Người ta ngủ say sau khi làm việc yêu. Chúng ngủ như chưa bao giờ được ngủ... Trăng vẫn thức, vẫn trong trẻo... Trăng rắc bụi trên sông, và sông gợn biết bao nhiêu vàng. Nhưng đến gần sáng, bỗng nhiên Chí Phèo chống một tay xuống đất, ngồi lên một nửa. Hắn thấy nôn nao, chân tay bủn rủn, như đến hai ba ngày nhịn đói. Thế mà bụng lại phinh phính đầy, hình như bụng hơi đau. Còn hình như gì nữa, thôi đúng đau bụng rồi. Đau thật, đau mỗi lúc một dữ! Nó cứ cuồn cuộn lên. À mà trời lành lạnh. Hễ có gió thì kinh kinh. Mỗi lần gió, hắn rươn rướn người. Hắn muốn đứng lên. Sao đầu nặng quá mà chân thì bẩy rẩy. Mắt hắn hoa lên. Bụng quặn lại, đau gò người. Hắn oẹ. Hắn oẹ ba bốn cái. Oẹ mãi. Giá mửa ra được thì dễ chịu. Hắn cho một ngón tay vào móc họng. Hắn oẹ ra một cái to hơn, ruột hình như lộn lên. Nhưng cũng chỉ nhổ ra toàn nước dãi. Hắn nghỉ một tí rồi lại cho tay vào mồm. Lần này thì mửa được. Trời ơi! Mửa thốc mửa tháo, mửa ồng ộc, mửa đến cả ruột. Đến nỗi người đàn bà phải dậy. Thị ngồi nhỏm dậy và ngơ ngác nhìn. Cái óc nặng nề ấy phải lâu mới nhớ ra và lâu mới hiểu. Bây giờ thì Chí Phèo đã mửa xong. Hắn mệt quá, lại vật người ra đất. Hắn đờ hai con mắt khẽ rên hắn chỉ còn đủ sức để rên khe khẽ. Từ đống mửa bay lại một mùi gì thoảng như mùi rượu, hắn bỗng nhiên rùng mình. Thị Nở lại. Đặt một tay lên ngực hắn thị suy nghĩ đến bây giờ mới xong, thị hỏi hắn - Vừa thổ hả? Mắt hắn đảo lên nhìn thị, nhìn một thoáng rồi lại đờ ra ngay. - i vào nhà nhé? Hắn làm như gật đầu. Nhưng cái đầu không động đậy, chỉ có cái mí mắt là nhích thôi. - Thì đứng lên. Nhưng hắn đứng lên làm sao được. Thị quàng tay vào nách hắn, đỡ cho hắn gượng ngồi. Rồi thị kéo hắn đứng lên. Hắn đu vào cổ thị, hai người lảo đảo đi về lều. Không có giường, chỉ có một cái chõng tre. Thị để hắn nằm lên và đi nhặt nhạnh tất cả những manh chiếu rách đắp lên cho hắn. Hắn hết rên. Hình như hắn ngủ. Thị cũng lim dim chực ngủ. Nhưng trong nhà nhiều muỗi quá. Muỗi nhắc cho thị cái áo quên ngoài vườn. Thị ra vườn. Đôi lọ nhắc cho thị việc đi kín nước, thị mải mốt mặc áo, kín nước, rồi xách đôi lọ nước đi về nhà. Trăng chưa lặn, không chừng trời còn khuya. Thị lên giường định ngủ. Nhưng nhớ lại việc lạ lùng tối qua. Thị cười. Thị thấy không buồn ngủ, và thị cứ lăn ra lăn vào. Khi Chí Phèo mở mắt thì trời đã sáng lâu. Mặt trời chắc đã cao, và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ. Cứ nghe chim ríu rít bên ngoài là đủ biết. Nhưng trong cái lều ẩm thấp vẫn chỉ hơi tờ mờ. Ở đây người ta thấy chiều lúc xế trưa và gặp đêm thì bên ngoài trời vẫn sáng. Chưa bao giờ Chí Phèo nhận thấy thế bởi chưa bao giờ hết say. Nhưng bây giờ thì hắn tỉnh. Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy, hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc, hay là đói rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao lên một tý. Hắn sợ rượu cũng như những người ốm sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy... Chao ôi là buồn! - Vải hôm nay bán mấy? - Kém ba xu dì ạ. - Thế thì còn ăn thua gì! - Thật thế đấy. Nhưng chẳng lẽ rằng lại chơi. Chí Phèo đoán một người đàn bà hỏi một người đàn bà khác đi bán vải ở Nam ịnh về. Hắn nôn nao buồn, là vì mẩu chuyện ấy nhắc cho hắn một cái gì rất xa xôi. Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Tỉnh dậy hắn thấy già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời! Có lý nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu... Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời. Ở những người như hắn, chịu đựng biết bao nhiêu là chất độc, đầy đọa cực nhọc mà chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể gọi là dấu hiệu báo rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều. Nó là một cơn mưa gió cuối thu cho biết trời gió rét, nay mùa đông đã đến. Chí Phèo hình như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau. Cũng may Thị Nở vào. Nếu thị không vào, cứ để hắn vẩn vơ mãi, thì đến khóc được mất. Thị vào cắp một cái rổ, trong có một nồi gì đậy vung. Đó là một nồi cháo hành còn nóng nguyên. Là vì lúc còn đêm, thị trằn trọc một lát, thị bỗng nhiên nghĩ rằng cái thằng liều lĩnh ấy kể ra thì đáng thương, còn gì đáng thương bằng đau ốm mà nằm còng queo một mình. Giá thử đêm qua không có thị thì hắn chết. Thị kiêu ngạo vì đã cứu sống một người. Thị thấy như yêu hắn đó là một cái lòng yêu của một người làm ơn. Nhưng cũng có cả lòng yêu của một người chịu ơn. Một người như thị Nở càng không thể quên được. Cho nên thị nghĩ mình bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau như “vợ chồng”. Tiếng “vợ chồng”, thấy ngường ngượng mà thinh thích. Đó vẫn là điều mong muốn âm thầm của con người khốn nạn ấy chăng. Hay sự khoái lạc của xác thịt đã làm nổi dậy những tính tình mà thị chưa bao giờ biết? Chỉ biết rằng thị muốn gặp Chí Phèo, gặp hắn mà nhắc lại chuyện đêm qua thì chắc buồn cười lắm. Gớm! Sao lại có thứ người đâu mà lì quá thế? Người ta ngồi đấy mà dám xán lăn ngay vào, nó chả ngang ngược mà người ta kêu bé, nó lại làm to hơn. Mà kể thì cũng ngù ngờ. Cái thằng trời đánh không chết ấy, nó còn sợ ai mà hòng kêu. Nhưng mà đáng kiếp. Thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi là hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà... Thế là vừa sáng thì đã chạy đi tìm gạo. Hành thì nhà thị may lại còn. Thị nấu bỏ vào cái rổ, mang ra cho Chí Phèo. Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt mình hình như ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Xưa nay, nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì. Hắn vẫn phải doạ nạt hay giật cướp. Hắn phải làm cho người ta sợ. Hắn nhìn bát cháo bốc khói mà bâng khuâng. Thị Nở thì chỉ nhìn trộm hắn, rồi lại toe toét cười. Trông thị thế mà có duyên. Tình yêu làm cho có duyên. Hắn thấy vừa vui lại vừa buồn. Và một cái gì nữa, giống như là ăn năn. Cũng có thể như thế lắm. Người ta hay ăn năn hối hận về tội ác khi không đủ sức để ác nữa. Thị Nở giục hắn ăn nóng. Hắn cầm lấy bát cháo đưa lên mồm. Trời ơi cháo mới thơm làm sao! Chỉ khói xông vào mũi cũng đủ làm người nhẹ nhõm. Hắn húp một húp và nhận ra rằng những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo rất ngon. Nhưng sao lại mãi đến bây giờ hắn mới nếm vị mùi cháo? Hắn tự hỏi rồi lại tự trả lời vì có ai nấu cho ăn đâu? Mà còn ai nấu cho mà ăn nữa! ời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một tay “đàn bà”. Hắn nhớ đến “bà ta”, cái con quỷ cái hay bắt hắn bóp chân mà lại kêu bóp lên trên, trên nữa, nó chỉ nghĩ đến sao cho thỏa nó chứ có yêu hắn đâu. Hồi ấy hắn hai mươi. Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không toàn là xác thịt. Người ta không thích cái gì người ta khinh. Vả lại bị một con đàn bà gọi đến nhà mà bóp chân! Hắn thấy nhục hơn là thích, huống hồi lại sợ. Quả thật, từ khi biết rằng con vợ chủ sai hắn làm một việc không chính đáng, hắn vừa làm vừa run. Không làm thì không được mọi việc trong nhà, quyền đàn bà. Chứ hắn, hắn có lòng nào đâu! ến nỗi người đàn bà phát cáu. Bà thấy xa xôi không được, phải làm đến nơi. Bà bảo hắn rằng “Mày thực thà quá! Con trai gì hai mươi tuổi mà đã như ông già”. Hắn vẫn giả vờ không hiểu. Bà lẳng lơ bảo “Chả nhẽ tao gọi mày vào chỉ để bóp chân thế này thôi ư?...” và thấy hắn dùng dằng, bà mắng xơi xơi vào mặt. Hắn chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì. Không, hắn chưa được một người đàn bà nào yêu cả. Vì thế mà bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Hắn có thể tìm bạn được, sao lại chỉ gây kẻ thù? Bát cháo húp xong rồi, thị Nở đỡ lấy bát cháo và múc thêm bát nữa. Hắn thấy mình vã bao nhiêu mồ hôi. Mồ hôi chảy ra trên đầu, trên mặt, những giọt to như giọt nước. Hắn đưa tay áo quệt ngang một cái, quệt mũi cười rồi lại ăn. Hắn càng ăn, mồ hôi lại càng nhiều. Thị Nở nhìn hắn, lắc đầu thương hại. Hắn thấy lòng thành trẻ con. Hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ. Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người? ó là cái bản tính của hắn, ngày thường bị lấp đi. Hay trận ốm thay đổi hẳn về sinh lý, cũng thay đổi cả tâm lý nữa? Những người yếu đuối vẫn hay hiền lành. Muốn ác, phải là kẻ mạnh. Hắn đâu còn mạnh nữa. Và có lúc hắn ngẫm mình mà lo. ... Mời các bạn đón đọc Chí Phèo của tác giả Nam Cao.
Uploaded byNG 0% found this document useful 0 votes8 views6 pagesOriginal TitleCHÍ PHÈO - NAM CAOCopyright© © All Rights ReservedShare this documentDid you find this document useful?Is this content inappropriate?Report this Document0% found this document useful 0 votes8 views6 pagesChí Phèo - Nam CaoOriginal TitleCHÍ PHÈO - NAM CAOUploaded byNG Full descriptionJump to Page You are on page 1of 6Search inside document You're Reading a Free Preview Pages 4 to 5 are not shown in this preview. Buy the Full Version Reward Your CuriosityEverything you want to Anywhere. Any Commitment. Cancel anytime.
chí phèo nam cao pdf